Lương cho chuyên gia, nhà khoa học bằng lương bộ trưởng có đủ hấp dẫn?

Date: Category:Chính trị Views:2 Comment:0


Đây là bước đi cụ thể hóa ý kiến chỉ đạo của Tổng Bí thư Tô Lâm tại hội nghị sơ kết 6 tháng đầu năm của Ban chỉ đạo Trung ương về phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số diễn ra ngày 2/7 vừa qua.

Tổng Bí thư yêu cầu các cơ quan khẩn trương xây dựng đề án phát triển, đãi ngộ và sử dụng hiệu quả đội ngũ chuyên gia, đồng thời triển khai Chiến lược thu hút nhân tài đến năm 2030, tầm nhìn 2050; định rõ tiêu chí, quy chế làm việc, chế độ đãi ngộ và quy trình tuyển dụng riêng cho các tổng công trình sư, kiến trúc sư trưởng là những người đóng vai trò dẫn dắt triển khai các sáng kiến đột phá, chiến lược cấp quốc gia.

nha khoa hoc.jpg
Các cơ quan có trách nhiệm đang tích cực nghiên cứu chế độ, chính sách cho chuyên gia, nhà khoa học. Ảnh: HUS

Một trong các phương án được đề xuất là lương của các chuyên gia, nhà khoa học được tính theo lương đã được quy định cho chuyên gia cao cấp với bậc 1 hệ số 8.8, bậc 2 hệ số 9.4 và bậc 3 hệ số 10. Nói ngắn gọn, lương của các chuyên gia, nhà khoa học với bậc 3 cao nhất sẽ ngang bằng lương bộ trưởng, với khoảng 23,4 triệu đồng/tháng. Ngoài lương còn tính đến phụ cấp, chế độ ưu đãi nhà ở, xe cộ đi lại…

Thử hình dung các chuyên gia, nhà khoa học trong và ngoài nước đón nhận thông tin này ra sao. Vẫn biết khó khăn, thách thức nhất trong tính lương cho chuyên gia, nhà khoa học vốn không phải "người nhà nước" là câu chuyện chưa có cơ chế tài chính phù hợp. Mới nghe xem ra có vẻ hợp lý, nhưng xem xét kỹ thấy ngay sự không hợp lý.

Chưa có cơ chế tài chính phù hợp nên đành lấy cái có sẵn là lương chuyên gia cao cấp? Đây đâu còn là tinh thần chỉ đạo của Tổng Bí thư về chính sách đãi ngộ đặc biệt cho tổng công trình sư, kỹ sư trưởng… Chuyên gia, nhà khoa học là những tài năng thực sự. Nếu họ vào làm việc trong khu vực công thì chắc chắn sẽ mang lại kết quả vượt trội, tạo ra những đột phá trong từng lĩnh vực, thông qua đó góp phần đẩy nhanh quá trình đổi mới sáng tạo, đưa đất nước phát triển nhanh hơn.

Cho dù có nhiều yếu tố quan trọng như môi trường làm việc, điều kiện làm việc, tình cảm đối với đất nước, nhưng lương vẫn là yếu tố quan trọng nhất trong thu hút người tài vào làm việc trong khu vực công. 

Khi xem xét tính lương chuyên gia, nhà khoa học, không nên và không thể đem tư duy lương bổng theo thứ bậc hành chính từ nhân viên, qua cán sự, chuyên viên đến chuyên gia cao cấp để "xếp" chuyên gia, nhà khoa học vốn không phải là người nhà nước cùng vào hệ thống này, và coi như "đặc ân" khi họ có lương tương đương bộ trưởng.

Mà thực tiễn đâu có thiếu ví dụ về câu chuyện này. Chẳng hạn lương cho huấn luyện viên trưởng đội tuyển bóng đá quốc gia, nếu theo cơ chế thông thường thì làm sao có thể có được các ông Park Hang-seo, Philippe Troussier và Kim Sang-sik…

Hơn nữa, hãy thực tế hơn một chút khi xem lương 24 triệu đồng cộng với phụ cấp thì con số mấy chục triệu này có hấp dẫn hay không. Chưa có gì hấp dẫn đối với chuyên gia, nhà khoa học trong nước. Lại càng hoàn toàn không hấp dẫn đối với chuyên gia, nhà khoa học nước ngoài, bởi người lao động bình thường ở các nước châu Âu, Mỹ, lương tháng cũng từ 2.000 USD trở lên.

Cách làm của người Nhật từ hơn 150 năm trước

Thế mới biết, ra chính sách, chế độ cho người tài vào bộ máy nhà nước mới khó làm sao. Và đến đây không thể không suy nghĩ, không cảm phục về cách làm của người Nhật cách đây hơn 150 năm.

Năm 1868, Minh Trị lên ngôi Thiên Hoàng và mở ra công cuộc cải cách, canh tân đất nước với mục tiêu đưa Nhật Bản trong thời gian ngắn nhất trở nên hùng cường, sánh vai với các cường quốc như Mỹ, Anh, Pháp, Đức…

Vào ngày 7/4/1868, Minh Trị Thiên Hoàng trong lễ tế cáo trời đất và tổ tiên đã công bố "Năm điều ngự thệ", trong đó điều thứ năm là "Cầu trí thức ở thế giới, làm cho nước nhà trở nên mạnh lớn vẻ vang". Điều ngự thệ thứ năm này chính là nền tảng cho chính sách quốc gia về thu hút chuyên gia giỏi nước ngoài vào Nhật làm việc, bởi vào thời gian đó, Nhật rất lạc hậu, có trình độ khoa học, kỹ thuật tụt hậu hàng trăm năm so với các nước phương Tây phát triển.

Tháng 2/1870, Chính phủ Nhật ban hành Sắc lệnh "Các điều khoản về việc chấp nhận chuyên gia nước ngoài". Văn bản này là cơ sở pháp lý quan trọng trong việc thuê chuyên gia nước ngoài, quy định các vấn đề như hợp đồng, chế độ đãi ngộ, kinh phí, thực hiện và chấm dứt hợp đồng…

Sắc lệnh đã nhấn mạnh việc tiếp nhận chuyên gia nước ngoài là việc rất hệ trọng, khi tiếp nhận phải xem xét học thuật của chuyên gia đó sâu, rộng ra sao, học thuật đó có khả năng ứng dụng được vào Nhật hay không, tư cách và nhiệt tâm của chuyên gia đó như thế nào.

Nhờ có chính sách đúng đắn như vậy mà đã có đông đảo chuyên gia nước ngoài vào làm việc tại Nhật. Số lượng chuyên gia nước ngoài, theo các nhà nghiên cứu, dao động từ 2.000-4.000. Cho đến năm 1899 vẫn còn khoảng 800 chuyên gia nước ngoài làm việc tại Nhật.

Bộ Công nghiệp Nhật là cơ quan thuê nhiều chuyên gia nước ngoài nhất, chiếm khoảng 1/3 chuyên gia nước ngoài làm việc tại Nhật. Khoảng một nửa chuyên gia nước ngoài mà Bộ Công nghiệp thuê là các kỹ sư trực tiếp chỉ đạo thi công các công trình lớn như đường sắt, điện tín, hải cảng…

Chuyên gia nước ngoài đến từ nhiều nước khác nhau và cũng được Nhật lựa chọn theo thế mạnh của chuyên gia và theo những lĩnh vực, ngành nghề mà quốc gia này đang thực sự cần đẩy nhanh phát triển.

Bộ Giáo dục thuê chuyên gia giảng dạy ở các ngành y học, khoa học tự nhiên và ngôn ngữ học. Bộ Nội vụ thuê chuyên gia người Đức là chủ yếu để giúp thiết lập hệ thống cảnh sát. Bộ Tài chính thuê nhiều chuyên gia Anh và Pháp. Bộ Lục quân thuê chuyên gia Pháp, Đức.

Điều khá lý thú là người Nhật không tiếc tiền để thuê được chuyên gia nước ngoài. Năm 1874 có khoảng 520 chuyên gia nước ngoài làm việc tại Nhật, và Chính phủ đã phải chi tới 2,272 triệu Yên để trả lương cho họ, bằng 33,7% ngân sách quốc gia. Đây là một con số đáng kinh ngạc bởi một số tiền lớn như vậy đã được chi ra. Xét riêng Bộ Công nghiệp trong năm 1874 đã chi ra gần 77.000 Yên, bằng 1/3 ngân sách của Bộ để thuê chuyên gia nước ngoài.

Có khoảng 7% chuyên gia nước ngoài ở Nhật hưởng lương tương đương thủ tướng, bộ trưởng, đại tướng Lục quân… 1% chuyên gia nước ngoài có mức lương cao hơn lương thủ tướng. Ví dụ như lương của tổng công trình sư người Anh Cargill là 2.000 Yên/tháng, lương của Kinder - kỹ sư người Anh phụ trách nhà máy chế tạo tiền ở Osaka - là 1.045 Yên/tháng, trong khi lương của thủ tướng là 800 Yên/tháng.

Bài học kinh nghiệm của Nhật cho thấy việc thuê chuyên gia nước ngoài là một chính sách nhất quán của quốc gia, thể hiện tầm nhìn chiến lược về tạo nền tảng cho phát triển của đất nước. Bài học thứ hai là về sự lựa chọn chuyên gia cho các lĩnh vực, ngành nghề thực sự cần thiết và bài học cuối cùng là về chế độ, chính sách có thể gọi là cực kỳ vượt trội để thu hút chuyên gia nước ngoài.

Đề cập đến kinh nghiệm của Nhật cũng chính là để xem xét có được cách tiếp cận phù hợp trong nghiên cứu chính sách, chế độ cho chuyên gia, nhà khoa học trong và ngoài nước. Không có sự đột phá trong tư duy xây dựng chính sách sẽ không có được những chính sách cụ thể đủ sức hấp dẫn, thu hút chuyên gia, nhà khoa học, nhất là những người đang ở nước ngoài vào Việt Nam làm việc.

(Bài có sử dụng tài liệu, công trình nghiên cứu của một số tác giả)

Comments

I want to comment

◎Welcome to participate in the discussion, please express your views and exchange your opinions here.