Ông Phạm Xuân Hòe: Nên cho phép các tập đoàn lớn thành lập công ty cho thuê tài chính

Date: Category:Kinh doanh Views:1125 Comment:0


Nghị quyết 68 lần đầu tiên khẳng định vai trò của kênh cho thuê tài chính như một giải pháp vốn trung và dài hạn quan trọng cho khu vực kinh tế tư nhân. Đây được xem là cơ hội “thức tỉnh” cho một lĩnh vực vốn lâu nay bị bỏ quên hoặc chưa được hiểu đúng.

PV VietNamNet đã có cuộc trao đổi với ông Phạm Xuân Hòe, Tổng Thư ký Hiệp hội Cho thuê tài chính Việt Nam, về thực trạng, cơ hội và giải pháp phát triển thị trường này.

“Van giảm áp” cho hệ thống ngân hàng

- Nghị quyết 68 lần đầu tiên đưa nội dung hoàn thiện hành lang pháp lý cho hoạt động cho thuê tài chính. Theo ông, điều này mở ra những cơ hội gì mới cho thị trường?

Ông Phạm Xuân Hòe: Đây là một bước ngoặt thực sự. Lần đầu tiên, Trung ương đặt cho thuê tài chính ngang hàng với các công cụ tín dụng chiến lược khác - từ tín dụng xanh, bảo lãnh tín dụng, quỹ hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa (SMEs), tới các mô hình gọi vốn mới.

Nghị quyết 68 không chỉ khẳng định vai trò kinh tế tư nhân mà còn yêu cầu hoàn thiện hành lang pháp lý, mở rộng danh mục tài sản cho thuê, tạo điều kiện để hợp tác giữa các định chế tài chính. Điều này đặc biệt quan trọng với doanh nghiệp nhỏ và vừa , hộ kinh doanh, những đối tượng thường bị “chặn” ở cửa vốn dài hạn ngân hàng.

Nếu chính sách được cụ thể hóa và triển khai đồng bộ, cho thuê tài chính sẽ trở thành một “van giảm áp” cho hệ thống ngân hàng thương mại, góp phần giảm áp lực vốn trung và dài hạn cho nền kinh tế.

Pham Xuan Hoe.jpg
Ông Phạm Xuân Hòe: Khi áp cơ chế quản lý giống ngân hàng thương mại, chúng ta vô tình tước đi lợi thế lớn nhất của cho thuê tài chính.

- Nhưng hiện nay, dư nợ cho thuê tài chính chỉ chiếm khoảng 0,28% tổng dư nợ tín dụng toàn nền kinh tế, tỷ lệ thâm nhập vào doanh nghiệp còn rất thấp. Nguyên nhân chính nằm ở đâu, thưa ông?

Có ba nguyên nhân chính.

Thứ nhất, số lượng công ty cho thuê tài chính quá ít, hiện chỉ có 9 công ty (8 đang hoạt động, 1 tái cơ cấu), trong khi thông lệ quốc tế số lượng này thường gấp 10 lần số ngân hàng thương mại. Số lượng này mới đáp ứng khoảng 1,5% nhu cầu thị trường.

Thứ hai, tư duy chính sách lâu nay “đóng khung” cho thuê tài chính vào cùng khung quản lý như ngân hàng nhận tiền gửi, áp tiêu chuẩn và thủ tục giống nhau, khiến tính linh hoạt bị triệt tiêu.

Thứ ba, nhận thức xã hội và ngay cả một số cơ quan quản lý về cho thuê tài chính còn hạn chế, dẫn đến việc dịch vụ này chưa được khai thác đúng tầm. Kết quả là, dư nợ toàn ngành hiện mới khoảng 47.000 tỷ đồng, quá nhỏ bé so với tiềm năng của gần 1 triệu doanh nghiệp và 5,2 triệu hộ kinh doanh.

- Ông từng nhắc tới việc “nhốt” cho thuê tài chính vào cùng khuôn khổ ngân hàng thương mại. Vậy hệ quả của cách tiếp cận này là gì và cần thay đổi ra sao để cho thuê tài chính phát triển đúng bản chất?

Khi áp cơ chế quản lý giống ngân hàng thương mại, chúng ta vô tình tước đi lợi thế lớn nhất của cho thuê tài chính: khả năng chấp nhận rủi ro cao hơn, ra quyết định nhanh hơn và thiết kế sản phẩm linh hoạt hơn cho doanh nghiệp nhỏ và vừa. Các quy định về quản trị, cấp phép, báo cáo, xử lý tài sản... hiện chưa phân biệt rõ bản chất “không nhận tiền gửi” của cho thuê tài chính, khiến chi phí tuân thủ tăng, thủ tục rườm rà, danh mục sản phẩm bị bó hẹp.

Muốn thay đổi, cần xây dựng luật riêng hoặc chương riêng trong Luật Các tổ chức cho vay không nhận tiền gửi; áp dụng chuẩn quản lý rủi ro tách biệt với ngân hàng; mở rộng danh mục tài sản cho thuê, bao gồm cả tài sản vô hình như phần mềm, bản quyền, quyền khai thác.

Có thể đạt 100-150 công ty cho thuê tài chính trong 5 năm tới

- Luật Các Tổ chức tín dụng 2024 và Thông tư 26/2024/TT-NHNN có nhiều điểm mới được đánh giá là cởi mở hơn. Nhưng vì sao nhiều nội dung như xét duyệt cho thuê tài chính điện tử hay phát triển dịch vụ tư vấn ngân hàng vẫn chưa được triển khai rộng rãi?

Lý do lớn nhất là hạ tầng công nghệ và quy trình nội bộ của các công ty chưa sẵn sàng. Ví dụ, xét duyệt điện tử tới 500 triệu đồng chưa triển khai vì kiến trúc công nghệ thông tin chưa đáp ứng, trong khi mức trần 500 triệu lại quá thấp để hấp dẫn.

Với dịch vụ tư vấn ngân hàng hay thu phí dịch vụ, nhiều đơn vị chờ hướng dẫn cụ thể hoặc chưa nhìn thấy ngay nhu cầu thị trường. Ngoài ra, yêu cầu báo cáo khách hàng với dư nợ từ 0,5% vốn tự có trở lên tạo ra nhiều thủ tục, thậm chí khiến khách hàng ngại tiếp cận dịch vụ.

- Ở nhiều nước, số công ty cho thuê tài chính gấp 10 lần số ngân hàng thương mại, còn Việt Nam mới có 9. Theo ông, đâu là giải pháp khả thi để tăng nhanh số lượng công ty trong vài năm tới?

Trước hết, cần đơn giản hóa điều kiện cấp phép, khuyến khích thành lập công ty mới từ cả nguồn vốn nội địa và FDI. Mức vốn pháp định 150 tỷ đồng không phải rào cản quá lớn; vấn đề là quy trình hiện nay còn phức tạp. Nên cho phép các tập đoàn lớn, kể cả phi tài chính, thành lập công ty tài chính tổng hợp có chức năng cho thuê tài chính.

Song song, việc xây dựng Luật cho thuê tài chính hoặc Luật các tổ chức cho vay không nhận tiền gửi sẽ tạo luật chơi ổn định, rõ ràng, thu hút nhà đầu tư. Nếu làm tốt, chúng ta có thể đạt 100-150 công ty trong 5 năm tới, đưa tỷ lệ thâm nhập SMEs lên 10-15%.

- Ngoài pháp lý, rào cản xã hội và thói quen kinh doanh của doanh nghiệp Việt ảnh hưởng thế nào đến sự phát triển thị trường? Cần làm gì để thay đổi nhận thức và thói quen này?

Văn hóa kinh doanh tại Việt Nam vẫn nặng về "sở hữu" tài sản, khiến nhiều doanh nghiệp bỏ qua lợi ích của thuê tài chính trong tiết kiệm vốn và đổi mới công nghệ. Ngay cả cơ quan thuế và đăng ký tài sản cũng chưa quen với hình thức này, dẫn đến xử lý hồ sơ chậm hoặc chưa đúng bản chất.

Để thay đổi, cần một chiến dịch truyền thông mạnh, phối hợp với hiệp hội ngành nghề, ngân hàng, cơ quan quản lý để giới thiệu lợi ích và quy trình thuê tài chính. Song song, phải có các gói sản phẩm "dễ hiểu - dễ tiếp cận" cho SMEs, chẳng hạn thuê dây chuyền sản xuất, thiết bị y tế, phương tiện vận tải với thủ tục tối giản, dịch vụ trọn gói.

Cho thuê tài chính - con số và so sánh quốc tế

Việt Nam: Dư nợ khoảng 47.000 tỷ đồng (0,28% tổng dư nợ tín dụng); 9 công ty đang hoạt động.

Đức: Cho thuê tài chính chiếm xấp xỉ 16% tổng tín dụng doanh nghiệp.

Mỹ: 22% tổng giá trị tài sản doanh nghiệp hình thành từ thuê tài chính.

Trung Quốc: 18% doanh nghiệp có hợp đồng cho thuê tài chính.

Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan (Trung Quốc): 70-80% SMEs sử dụng thuê tài chính cho máy móc, thiết bị.

Comments

I want to comment

◎Welcome to participate in the discussion, please express your views and exchange your opinions here.