
Tại hội thảo “Đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số thúc đẩy phát triển kinh tế-xã hội Việt Nam” diễn ra trong ngày 21-22/8 ở Hải Phòng, ông Nguyễn Huy Dũng - Ủy viên chuyên trách Ban Chỉ đạo Trung ương về phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số đã chia sẻ về thách thức và những vấn đề đặt ra trong phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số.
Ông chỉ rõ sáu thách thức lớn nhất mà Việt Nam đang phải đối mặt.
Thách thức đầu tiên là nhận thức. Sau khi Nghị quyết 57 của Bộ Chính trị được ban hành, tư duy và hành động đối với khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo có bước chuyển biến rõ rệt. Nhưng trong bối cảnh công nghệ toàn cầu biến động mạnh, yêu cầu về nhận thức mới, nhiệm vụ mới đặt ra ngày càng cấp bách.
Thứ hai là thể chế. Dù có nhiều nỗ lực cải cách, song hệ thống thể chế vẫn còn bất cập, thiếu tính đồng bộ, chưa theo kịp thực tiễn phát triển. Đây tiếp tục là “điểm nghẽn” lớn cần tháo gỡ.
Thứ ba, nguồn nhân lực chất lượng cao đang là nỗi trăn trở. Sự xuất hiện của nhiều công nghệ mới trong 5-10 năm gần đây mở ra cơ hội “đi tắt, đón đầu”, nhưng nếu không có đội ngũ nhân lực đủ trình độ, cơ hội sẽ nhanh chóng biến thành thách thức.

Thứ tư, hạ tầng. Việt Nam cùng lúc phải đối diện với cả hạ tầng truyền thống và hạ tầng số. Sự chậm trễ trong hoàn thiện hệ thống hạ tầng đồng bộ là rào cản trực tiếp đối với quá trình chuyển đổi số.
Thứ năm, công nghệ chiến lược. Việc chưa làm chủ được các công nghệ lõi khiến đất nước dễ bị phụ thuộc, khó bứt phá trong môi trường cạnh tranh toàn cầu.
Cuối cùng là an ninh mạng. Ông Nguyễn Huy Dũng nhấn mạnh, mọi tiến trình đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số chỉ có thể bền vững nếu được bảo đảm trên nền tảng an toàn, an ninh mạng vững chắc.
Nếu sáu thách thức này không được giải quyết một cách căn cơ, mục tiêu phát triển đột phá và bền vững của Việt Nam sẽ khó đạt được.
Cả tỉnh chỉ đếm trên đầu ngón tay cán bộ có chuyên môn về khoa học, kỹ thuật
Không chỉ dừng lại ở việc nhận diện thách thức, ông Nguyễn Huy Dũng chia sẻ nhiều câu chuyện thực tiễn trong quá trình làm quản lý của mình.
Về công tác cán bộ, Đảng đã chỉ đạo rõ: Cần tăng cường cán bộ có trình độ khoa học, kỹ thuật tham gia cấp ủy. Tuy nhiên, thực tế tại Thái Nguyên khi ông giữ cương vị Phó Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch UBND tỉnh cho thấy nguồn cán bộ chuyên môn khoa học kỹ thuật chỉ đếm trên đầu ngón tay.
Việc tìm kiếm nhân lực chất lượng cao để đáp ứng cơ cấu lãnh đạo trở thành bài toán khó, phản ánh rõ nét thách thức trong việc đưa trí tuệ khoa học vào hệ thống chính trị.

Ở lĩnh vực doanh nghiệp, theo ông Dũng, con đường sống còn chính là trở thành “doanh nghiệp công nghệ” trong chính ngành nghề của mình.
Từ vận tải, logistics, thương mại cho tới nông nghiệp – chỉ khi ứng dụng công nghệ, đổi mới sáng tạo mới giữ được thị phần và đủ sức cạnh tranh quốc tế. “Nếu không, nguy cơ mất thị phần là điều tất yếu”, ông cảnh báo.
Một ví dụ đặc biệt sinh động là chương trình “bình dân học vụ số” được triển khai ở Thái Nguyên. Không dừng lại ở việc phổ cập kỹ năng số cơ bản, địa phương đã thí điểm mô hình “bình dân học AI”.
Trong vòng 3 tháng, hơn 400.000 lao động được tiếp cận kiến thức AI trên nền tảng số, qua khảo sát, học tập, đánh giá và nhận chứng chỉ tự động. Người học được phân thành 7 cấp độ, chỉ một số ít đạt cao nhất.
Mô hình này tạo ra động lực học tập liên tục, khác hẳn cách tập huấn ngắn hạn trước kia. Đây là cách tiếp cận mới mẻ, biến công nghệ thành tri thức phổ thông.
Về thể chế, ông Dũng nhấn mạnh vai trò của Luật Khoa học - Công nghệ và Đổi mới sáng tạo (sửa đổi, bổ sung năm 2025) như nền tảng pháp lý để thúc đẩy khoa học công nghệ phục vụ phát triển kinh tế - xã hội. Song hành cùng thể chế là hạ tầng.
Ông lưu ý: “Không có điện, thì không thể nói tới AI hay chuyển đổi số”. Năng lượng, giao thông, viễn thông, dữ liệu và hạ tầng tính toán giá rẻ đều là điều kiện bắt buộc.
Hiện Việt Nam vẫn thiếu trung tâm tính toán AI, do đó nhiều địa phương lớn như Hà Nội, Đà Nẵng, TPHCM đang phối hợp xây dựng trung tâm dữ liệu, nhằm cung cấp năng lực tính toán mạnh và rẻ cho doanh nghiệp, nuôi dưỡng hệ sinh thái đổi mới sáng tạo.
Về nhân lực, ông cho rằng cần kết hợp ba hướng: Thu hút chuyên gia giỏi quốc tế, phát triển đội ngũ trong nước và đặc biệt là tăng mạnh nguồn nhân lực STEM.
Đáng lo ngại là tỷ lệ sinh viên theo học ngành STEM của Việt Nam đang ở mức thấp nhất trong các quốc gia đặt tham vọng phát triển công nghệ. Nếu không thay đổi, đây sẽ là rào cản lớn trong trung và dài hạn.
“Cần khơi dậy niềm đam mê khoa học trong thế hệ trẻ. Học sinh, sinh viên phải coi khoa học công nghệ là lựa chọn nghề nghiệp hấp dẫn”, ông đề nghị.
Thực tế tại Đại học Thái Nguyên đã cho thấy cách làm mới: Đưa công nghệ vào mọi ngành đào tạo, từ nông nghiệp gắn với chế biến chè đến các ngành đặc thù khác.
Qua đó, sinh viên hiểu rằng không ngành nào đứng ngoài khoa học công nghệ. Đây là con đường gắn tri thức với thực tiễn, tạo thế hệ nhân lực có tư duy đổi mới ngay từ giảng đường.
Bên cạnh đó, công nghệ chiến lược và an toàn, an ninh mạng tiếp tục được nhấn mạnh như điều kiện tiên quyết. Nhà nước không chỉ dừng lại ở Chính phủ số, mà phải kiến tạo và đồng hành cùng toàn xã hội trong hành trình chuyển đổi.
Theo số liệu thống kê đến tháng 5/2025, có 868 nhiệm vụ triển khai theo Nghị quyết 57, trong đó 294 nhiệm vụ đã hoàn thành, 472 đang thực hiện, 102 chưa đạt tiến độ.
Sau 8 tháng, 5 kết quả nổi bật được ghi nhận: Hình thành khoảng 700 văn bản dưới nghị quyết, đổi mới phương thức quản trị; kết nối và làm sạch dữ liệu quốc gia; cải cách thủ tục hành chính và bước đầu xác định rõ các công nghệ chiến lược cần ưu tiên.


Comments