
"Đàn ông Cơ Tu phải biết đan lát"
Trong ký ức của ông Arất Cước - già làng, người có uy tín xã Đông Giang, hình ảnh những người đàn ông ngồi đan lát bên bếp lửa đã hằn sâu từ thuở nhỏ.
"Từ nhỏ đã thấy ông tôi, cha tôi đan lát. Không ai dạy, cứ nhìn rồi làm theo. Đàn ông trong làng ai cũng phải biết đan cái gùi, cái nia, cái nong… không chỉ để dùng, mà còn để nuôi gia đình" ông kể.
Nghề đan lát của người Cơ Tu không ai nhớ rõ xuất hiện từ bao giờ, chỉ biết đã gắn bó với đời sống rừng núi như một phần máu thịt. Tre, mây, nứa có sẵn trong rừng; trí nhớ truyền đời và đôi tay khéo léo đã biến nguyên liệu thô thành những vật dụng bền chắc, phục vụ mọi sinh hoạt - từ chiếc gùi đựng củi, nia sàng thóc, khay trầu cho đến mâm cơm ngày hội.

Theo già Cước, một sản phẩm đan lát hoàn chỉnh đòi hỏi sự am hiểu nguyên liệu và tính nhẫn nại. Tre phải già mới dẻo, mây phải tươi mới bền; từng nan tre được chẻ, vót, ngâm, phơi cho đến khi đạt độ mềm dẻo vừa phải.
Người Cơ Tu còn có cách "làm chín" nguyên liệu rất riêng: Tre, mây sau khi chẻ vót được gác lên giàn bếp cho khói hun. Nhiệt và khói vừa sấy khô, vừa giữ cho sợi mây, nan tre dẻo dai, chống ẩm mốc, mối mọt. Qua thời gian, chúng ngả màu nâu cánh gián bóng đẹp - dấu ấn của sự bền chắc.
Nhiều gia đình còn treo cả sản phẩm đã hoàn thiện lên bếp để hun thêm, giúp chịu mưa nắng và có thể dùng bền hàng chục năm giữa điều kiện khắc nghiệt của đại ngàn.

Những chiếc gùi, cái nong, nia… không chỉ là vật dụng thường ngày, mà còn chứa đựng hồn cốt văn hóa - biểu trưng của sự cần mẫn và tự chủ trong đời sống người miền núi. Với người Cơ Tu, việc tạo ra một sản phẩm không đơn thuần là lao động thủ công, mà còn là một nghi thức gắn với ký ức, phong tục và tri thức bản địa, được truyền từ đời này sang đời khác.
"Chỉ riêng gùi Cơ Tu đã có hơn 10 loại với kiểu dáng, mục đích sử dụng khác nhau: h’đool dùng đựng lúa, pr’eng để gùi rau quả, adong kiêr đựng sắn, Ta Leech ba ngăn dành cho đàn ông đi rừng, pr’eng nhỏ xinh cho trẻ em trong lễ hội, hay p’rôm dùng đựng trang sức và thường được cha tặng con gái làm hồi môn khi đi lấy chồng…", già Cước chia sẻ.
Giữ nghề - giữ gốc
Từ xã Đông Giang, men theo con đường núi quanh co, chừng nửa giờ xe chạy là đến thôn Bhơ Hôồng (xã Sông Kôn) - nơi già Bhling Blóo (70 tuổi) vẫn bền bỉ sống theo nhịp quen thuộc: sáng vào rừng lấy nguyên liệu, chiều ngồi bên gian nhà, tỉ mẩn kết từng sợi mây, nan tre. Dưới bàn tay nhăn nheo nhưng vững chãi, gùi, giỏ, mâm tre, khay trà hay hộp trang sức lần lượt ra đời.
"Tôi học đan lát từ năm 15 tuổi, từng bỏ ngang khi đi bộ đội. Sau hòa bình, tôi trở lại với nghề, đến nay cũng ngót nghét hơn 50 năm", ông nhớ lại.

Không muốn để nghề mai một, già Bloó còn lập tổ đan lát trong thôn, tập hợp bảy nghệ nhân, mở ba lớp miễn phí dạy gần 40 người, phần lớn là thanh niên. Ban đầu, nhiều người học vì tò mò, nhưng khi sản phẩm được khách đặt mua, họ bắt đầu say nghề. Một số đã đủ tay nghề để làm ra sản phẩm bán cho du khách.
Nhờ sự bền bỉ ấy, nhiều sản phẩm đan lát Cơ Tu như mâm cơm, khay trầu… đã được công nhận OCOP 3 sao. Già Bloó cũng từng mang nghề ra Hà Nội dự thi và đoạt giải Ba tại cuộc thi do Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tổ chức.

Không dừng ở mẫu truyền thống, già Bloó còn sáng tạo thêm hộp nữ trang, giỏ xách, hộp cơm… để phù hợp thị hiếu, dù đầu ra vẫn là trở ngại lớn.
"Làm nghề này cực lắm, có khi mất cả tháng mới xong một sản phẩm mà bán chẳng được bao nhiêu. Nhưng còn giữ nghề là còn giữ cái gốc", ông nói.

Những năm gần đây, Đà Nẵng (Quảng Nam cũ) chú trọng khôi phục làng nghề gắn với du lịch cộng đồng. Các làng Cơ Tu như Bh’hồng (xã Sông Kôn), Ta Lang (xã A Vương) hay Ga Lêê (xã Bến Giằng)... trở thành điểm đến hút khách. Nhờ đó, không chỉ nghề đan lát mà cả thổ cẩm, hát lý, nhạc cụ dân tộc… cũng đang dần hồi sinh.
Từ chiếc nong, nia mộc mạc đến gùi tinh xảo, sản phẩm đan lát Cơ Tu hôm nay không chỉ phục vụ đời sống bản địa, mà còn trở thành hàng hóa văn hóa - mang câu chuyện, bàn tay, tâm hồn người miền núi đến với bạn bè bốn phương. Trong từng đường đan giản dị là nhịp sống lặng lẽ nhưng bền bỉ của những già làng vẫn ngày ngày "giữ lửa" nghề giữa đại ngàn.



Comments